Chết thử 07.
Để tiếp tục tìm hiểu những lối ra khác cho linh hồn khi thoát xác, em đã thử nghiên cứu nhiều sách vở của cả phương đông và phương tây nhưng có điều gì đó vẫn không thể khớp với nội dung mà em mong đợi.
Sau đó, một thời gian dài em tự tìm cách sao cho bản thân có thể xuất hồn ra khỏi thể xác.
Nghiên cứu một chút về thiền kết hợp một vài loại thảo dược.
Cuối cùng vào một hôm em thật sự thành công.
Khuya hôm đó, sau khi thiền như mọi ngày, và tìm kiếm cảm giác từng ra khỏi thân xác và bất chợt khi đúng cảm giác đó em cũng lần nữa thoát ra khỏi cơ thể.
Khác với lần được vị sư người Anh giúp đỡ, sau khi thoát ra thì linh hồn của em được tiến vào đường thông dẫn đến linh giới.
Còn giờ đây tự em thoát ra thì không hề thấy một lối nào hiện ra.
Em vẫn nhìn thấy cơ thể mình ngồi đó trên ghế sofa.
Em tự đi khắp nhà nhìn một lượt mọi người trong nhà đang ngủ say.
Dù rằng bản thân cũng thấy nhẹ nhàng, nhưng so với lần trước thì vẫn còn thua một chút...
Bằng vào linh hồn lúc này, em có thể tự do di chuyển mà không hề bị cản trở bởi giới hạn đồ vật.
Em bỗng nghĩ, không biết rằng ở đất nước mình có vị Thần nào đang trú ngụ hay không.
Suy nghĩ vừa dứt, thì bên tai em bỗng nghe thấy một tiếng nhạc du dương.
Nó là một loại âm thanh mỹ diệu khó hình dung được rằng nó được đánh lên bởi loại nhạc cụ nào.
Dần dần trong một trạng thái kỳ lạ em bắt đầu được dẫn dắt di chuyển theo một hướng cố định.
Cảnh vật không ngừng lướt ra, mùi cỏ cây, mùi đất đêm khuya đậm sương toát lên một mùi vị ẩm ướt, tiếng côn trùng trong đêm vang vẳng hoà cùng nhịp điệu du dương của đêm khuya.
Dần dần rời xa thành phố, những nhóm cây cao thay thế dần, với sinh lực vận chuyển mạnh mẽ trong thân gỗ, có thể nghe rõ tiếng chảy nhanh thành dòng.
Một lát sau trên một ngọn đồi lớn, xung quanh có vài ngọn núi cao bọc ở cả 3 mặt, chỉ chừa mỗi hướng đông.
Tại vị trí lưng chừng đồi thấp thoáng một đạo viện nhỏ.
Ngoài cửa cổng được làm bằng gỗ, có sơn đỏ và vàng óng.
Tiến vào bên trong là một khoảng sân. Sau đó là một dãy bậc thang đi lên men theo độ dốc của ngọn đồi.
Ngay chính giữa khuôn viên có một toà tháp cao tầm 5m. Bên trên cùng không rõ có chứa vật gì nhưng trong đêm tối có thể phát ra một thứ ánh sáng vàng thuần khiết và thần thánh trang nghiêm.
Một ông lão xuất hiện, với bộ quần áo lam bình thường nhưng rất sạch sẽ.
Em phải xác định rằng ông đang ở thể xác phàm nhân, nhưng rõ ràng rằng ông nhìn thấy em vào lúc này.
Không nói gì, ông chỉ mỉm cười rồi ra hiệu em đi theo cùng.
Tiếp tục hướng lên trên ngọn đồi.
Một loại năng lượng kỳ lạ xuất hiện ở khắp nơi bên trên ,nó tụ lại như cái kén hình bầu dục.
Loại năng lượng làm cho bản thân em cực kỳ thoải mái, đến mức dù cho đang ở trạng thái linh hồn vẫn vô thức bật lên tiếng rên rỉ.
Bên trong là một toà kiến trúc nhỏ tầm 80m2.
Ông lão đưa em vào trong và ra hiệu cho em ngồi đợi.
Em chú ý quan sát thì thấy xung quanh có bài trí nhiều bình gốm sứ, đất nung, có một tượng phật nằm bằng bạch ngọc tinh xảo, một bộ kỷ trà bằng gỗ, vài loại nhạc cụ được treo trên tường... tất cả được bài trí đơn giản, nhưng lại hài hoà đến mức kỳ diệu.
Phía tây của căn phòng có một chiếc ghế có tay vịn, không biết nó được làm bằng gỗ gì, nhưng cảm giác nó như toả ra một loại ánh sáng có thể giúp cho thể trí trở nên sáng suốt và thanh tịnh.
Ông lão bước ra ngoài, một lúc sau căn phòng như đông kết lại, có một dòng điện chạy trong không khí có thể nghe cả tiếng xoẹt xoẹt mà nó phát ra.
Đẩy cửa bước vào là một người đàn ông trung niên.
Ngài mặc đồ cổ phục tay dài. Đi chân trần.
Ngài có một gương mặt tròn phúc hậu, mũi cao, mắt sáng, môi hồng. 2 hàng lông mày đen mượt lại tạo nên một cảm giác uy nghiêm.
Da ngài rất trắng, phải nói làn da mà phụ nữ có thể phải ghen tỵ.
Ngài tiến vào ngồi trên chiếc ghế gỗ.
Một lời chào được phát ra.
Khi con người không ở trạng thái giới hạn của xác phàm, thì thứ ngôn ngữ được sử dụng chính là cảm xúc.
Nó là một loại rung động đặc biệt tiến vào trực tiếp trong tâm trí. Nó không hiện hữu ra là câu từ nào, nhưng người đối diện lại hoàn toàn hiểu nội dung.
Việc này thật khó để giải thích bằng ngôn từ.
Ngài là vị Thần chuyển sinh tại nước Việt ta.
Vì nội dung tương đối nhạy cảm. Cho nên em không thể nói cụ thể về ngài, bởi hiện tại ngài vẫn có thân thể phàm nhân hiện hữu.
Tiền kiếp Ngài là một trong 4 vị Chân Đế, gốc Uchani miền tây nam Ấn Độ, gia đình ngài thuộc giai cấp Bà La Môn.
Ngài là hậu duệ của Phật Giáo Đại Thừa ở Ấn Độ, tập trung vào thuyết duy nhất về ý thức Nirakara, cho nên thuyết ngài đưa ra là " Thức Vô Sắc".
Tiền kiếp ngài có công trong việc dịch ra kinh Kim Cương, Kinh Vô Thượng, Kinh Đại Niết Bàn, ....và nhiều bản luận hiện đang được truyền dạy khác như luận Tứ Diệu Đế.
Trong nội dung em được Ngài truyền dạy có nhiều điều. Em xin chọn lọc ra vài ý chia sẻ cùng các anh chị.
Đầu tiên nói về các Đấng bên trên bao gồm Đức Chúa Jesus và Đức Phật Thích Ca vv... các vị đều không phải là Nhân Linh như linh hồn con người chúng ta, mà các ngài ấy đến từ vùng vũ trụ xa hơn rất nhiều so với quê hương của Nhân Linh, tức là nếu nói Nhân Linh ở cấp thứ 7 thì các ngài ở trên cấp thứ 10.
Do đó, trong phạm vi cõi cực lạc mà Đức Phật nhắc đến hay Thiên đàng thật sự mà Chúa nhắc đến không phải là cảnh giới cõi trời trong phạm vi tam giới của hệ mặt trời này.
Vì lòng thương xót của các ngài đối với chúng sanh còn sống trong các cõi thấp. Cho nên các ngài đã phân ra các ý thức trụ vào các phân tử vật chất hạ phàm.
Cho nên trong mỗi một phân tử vật chất, dù đang ở bất kỳ nơi nào trong thế giới đại thiên, đều có thể có các ngài xuất hiện.
Điều này tạm thời vượt quá khả năng lý giải của em nên em xin phép không bàn thêm.
Trong quá trình chứng đạo tại cõi phàm, có Quy Tắc mà người học đạo phải giữ gìn không thể tiết lộ cho nên từ năm 12 tuổi đến năm 30 tuổi không hề có thông tin của Chúa Jesus, tương tự từ khi Đức Phật Thích Ca học đạo cho đến khi bắt đầu giảng đạo, ngài cũng phải giữ lời thề bảo tồn Quy Tắc.
Tuy nhiên, bởi lòng thương xót chúng sinh còn trong vô minh, bản thân Ngài đã vi phạm lời thề, đã giảng nhiều hơn thông tin được phép tiết lộ, thông qua nhãn thông để tìm hiểu con đường từ Vô Sắc Tướng đi lên Niết Bàn.
Cho nên có một sự thật mà ít người biết đến chính là sau khi nhập tịch, 50 năm sau đó, ngài đã tái sinh một lần nữa để trả hết nhân quả vi phạm lời thề.
Với thân phận mới là Samkara vị chân sư của phái Vệ Đà.
Ở đây có chút khác biệt chính là Samkara chỉ có thể cảm xúc của Đức Phật Thích Ca, chứ không phải là chân linh của Đức Phật.
Nhưng dù chỉ là một phần cảm xúc còn để lại tại cõi trần ( vướng mắc nghiệp quả lời thề) thì ngài vẫn phải thực hiện nó một cách trọn vẹn.
Để con người hiểu được rằng, cho dù bất kỳ là ai, thậm chí một đấng Cao Cả vẫn sẽ tuân thủ quy tắc của những vị Chủ Thần tại bên dưới đã xây dựng nên.
Cho nên như Đức Phật đã dạy:
" Đừng truy tìm quá khứ, cũng không nên vọng tưởng tương lai".
Là có nguyên nhân của nó. Một khi chúng ta đang có mặt tại nơi đây, ngay chính phút giây này vậy thì phải nỗ lực cho bản thân giữ vững thân tâm ngay hiện tại ảo giác này.
Không ai có thể đi giúp trên con đường của chúng ta, mà chỉ có bản thân tự đi thì mới thoát khỏi ảo cảnh.
Ngài giới thiệu về Tây Phương có cõi Cực Lạc, và Đông Phương có Cõi Tịnh Lưu Ly là 2 cõi gần nhất sau khi Nhân Linh có thể tiến hoá ra khỏi vùng nội thiên của cõi trời vô sắc.
Mà không nhắc đến nơi Ngài rời đi sẽ là ở đâu, bởi vì nơi ngài đến sẽ còn rất lâu để Nhân Linh mới có thể tiếp tục tiến hoá đi lên đến tầng thứ đó.
Và một ẩn ý chính là chỉ có thể về một trong 2 nơi đó thì mối nguy cơ mà Nhân Linh tộc đang gặp phải mới có thể giải quyết....
Cre - Gà Con
Chết thử 01 - Trải nghiệm sau khi linh hồn rời khỏi thể xác!
Chết thử 02 - Khi linh hồn bắt đầu cho sự thoát ra khỏi thân thể vật lý một cách hoàn toàn!
Chết thử 03 - Các giác quan giống như sống động lại lần nữa theo một cách khác nào đó!
Chết thử 07 - Tự tìm cách sao cho bản thân có thể xuất hồn ra khỏi thể xác